Tên đề tài: “Nghiên cứu phát triển mô hình nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) vùng nước lợ Đồng Bằng Sông Cửu Long”.
Tác giả: Võ Hoàng Liêm Đức Tâm, Khóa: 2016
Ngành: Nuôi trồng thủy sản; Mã số: 62620110. Nhóm ngành: Nông-Lâm-Ngư nghiệp
Người hướng dẫn: PGS.TS. Lam Mỹ Lan - Trường Đại học Cần Thơ
Nghiên cứu phát triển mô hình nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) vùng nước lợ Đồng bằng Sông Cửu Long được thực hiện nhằm đánh giá được hiện trạng và nâng cao hiệu quả kỹ thuật và tài chính góp phần phát triển bền vững mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa vùng nước lợ vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
Khảo sát hiện trạng nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa ở hai vùng sinh thái nước ngọt (30 hộ) và lợ (120 hộ) tại Đồng bằng Sông Cửu Long năm 2018. Chọn 30 hộ nuôi tôm càng xanh xen canh ở Cà Mau tái khảo sát năm 2020 để đánh giá những thay đổi kỹ thuật và hiệu quả nuôi. Kết quả ghi nhận, ở vùng nước ngọt, mô hình nuôi tôm càng xanh luân canh mật độ thả tôm bột (PL15) trung bình 10,6 con/m2, tỷ lệ sống đạt 28,1%, năng suất 1.100 ± 300 kg/ha, lợi nhuận 31,7 triệu đồng/ha. Mực nước, mật độ và thời gian nuôi là hai nhân tố ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả của mô hình. Ở vùng nước lợ: (a) Mô hình nuôi tôm càng xanh luân canh, mật độ thả tôm bột 5,2 con/m2, mức nước 0,42 cm, có 28,5% số hộ không cho ăn, năng suất đạt 362 kg/ha, tỉ lệ sống 19,3 ± 6,8%, lợi nhuận 14,8 ± 10,7 triệu đồng/ha. (b) Mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh, mật độ thả tôm bột 1,5 con/m2, mức nước nuôi thấp 0,38 cm, có đến 78,2% số hộ không cho tôm ăn, năng suất đạt 109,5 ± 46,5 kg/ha, tỉ lệ sống 18,2 ± 9,3%, lợi nhuận 7,1 ± 2,8 triệu đồng/ha. Mật độ, mực nước, thức ăn và ương tôm giống là các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả tài mô hình. Mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh với lúa năm 2019 đã có nhiều cải tiến kỹ thuật so với năm 2017, mực nước trên trảng, mật độ thả nuôi, số hộ cho tôm ăn và số lần thay nước tăng. Khối lượng, tỷ lệ sống, năng suất tôm nuôi tăng lên đáng kể, lợi nhuận cùng tỷ suất lợi nhuận được cải thiện. Cho tôm ăn và mật độ nuôi là hai nhân tố ảnh hưởng đến năng suất và lợi nhuận của mô hình.
Nghiên cứu ảnh hưởng của ương giống và cho ăn lên hiệu quả kỹ thuật và tài chính của mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh với lúa ở vùng nước lợ. Thí nghiệm bố trí với 3 nghiệm thức: (nghiệm thức 1) không ương giống, không cho ăn; (nghiệm thức 2) không ương giống, có cho ăn; (nghiệm thức 3) ương giống mật độ cao, có cho ăn, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần, thời gian ương giống 2 tháng. Sau 6 tháng ương nuôi, khối lượng, năng suất, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cao nhất ở nghiệm thức 3 khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với nghiệm thức 1 và 2. Tỷ lệ sống của tôm ở nghiệm thức 3 cao hơn có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với nghiệm thức 1 nhưng không khác biệt (P>0,05) so với nghiệm thức 2. Tôm càng xanh nuôi xen canh với lúa vùng nước lợ có ương giống và cho tôm ăn đạt hiệu quả cao và thời gian tôm cái mang trứng chậm.
Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ thả giống lên hiệu quả nuôi tôm càng xanh xen canh với lúa ở vùng nước lợ. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức mật độ là 1,5; 2 và 2,5 con/m², mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần. Tôm giống có khối lượng 12,7 ± 2,14 g. Sau 100 ngày, khối lượng tôm, lệ sống và tỷ suất lợi nhuận cao nhất ở mật độ 1,5 con/m². Nuôi tôm càng xanh xen canh trong ruộng mật độ giống 1,5 con/m2 đạt hiệu quả tốt.
Nghiên cứu ảnh hưởng của mức nước lên hiệu quả nuôi tôm càng xanh luân canh trên nền đất lúa ở vùng nước lợ. Thí nghiệm gồm 2 nghiệm thức mức nước là 0,3 – 0,4 m và 0,5 – 0,6 m, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần, thời gian nuôi là 120 ngày. Kết quả cho thấy, nhiệt độ, oxy hòa tan, N-NH4+, N-NO2- ở độ sâu mức nước 0,5 – 0,6 m tốt hơn ở độ sâu mức nước 0,3 – 0,4 m. Ở độ sâu nước thấp (0,3 – 0,4 m) tôm có khối lượng nhỏ hơn, tỷ lệ sống và năng suất thấp hơn (39,6 g, 25,4% và 292 kg/ha) so với tôm nuôi ở mức nước cao (0,5 – 0,6 m) (46,9 g, 30,5% và 358 kg/ha). Tổng thu, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận ở nghiệm thức 0,5 – 0,6 m cao hơn so với nghiệm thức 0,3 – 0,4 m (P<0,05). Kết quả cho thấy nuôi tôm trên ruộng lúa ở vùng nước lợ có độ sâu nước (0,5 – 0,6 m) các yếu tố môi trường tối ưu cho tôm và cải thiện đáng kể hiệu quả tài chính của mô hình nuôi.
Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ thả giống lên hiệu quả nuôi tôm càng xanh luân canh ở vùng nước lợ. Thí nghiệm bố trí ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức mật độ (3, 4 và 5 con/m²); mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần. Tôm giống có khối lượng 12,7 ± 2,14 g. Sau 100 ngày nuôi, khối lượng, tỷ lệ sống, năng suất và tỷ suất lợi nhuận cao nhất ở mật độ 3 con/m² (45,1 ± 1,30 g; 52,0 ± 2,8% và 108,8 ± 2,0%) (P<0,05). Nuôi tôm càng xanh luân canh trong ruộng mật độ tôm giống 3 con/m2 đạt hiệu quả cao.
Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh luân canh ở vùng nước lợ được thực hiện tại 6 ruộng có diện tích 1,5 ha/ruộng. Mật độ thả tôm giống 3 con/m2. Mức nước mặt trảng từ 0,5 – 0,6 m. Sau 120 ngày nuôi, khối lượng tôm từ 50,4 – 53,3 g/con, tỷ lệ sống trung bình 24,6 ± 4,3%, năng suất trung bình 660 ± 129 kg/ha, lợi nhuận thu được từ mô hình là 21,4 – 57,5 triệu đồng/ha, tỷ suất lợi nhuận đạt 116,2%.
Tóm lại, thông qua đánh giá thực trạng, cùng nghiên cứu ương giống, cho ăn, mức nước, mật độ và kết quả thực nghiệm nuôi tôm càng xanh luân canh với những cải tiến kỹ thuật mới được ứng dụng, tăng trưởng, tỷ lệ sống, năng suất tôm nuôi được cải thiện. Phát triển mô hình nuôi tôm càng xanh ở vùng nước lợ mang lại hiệu quả do tôm càng xanh thích nghi trong điều kiện biến đổi khí hậu (nhiệt độ tăng, xâm nhập mặn).
Luận án nghiên cứu phát triển mô hình nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) vùng nước lợ Đồng Bằng Sông Cửu Long đã đạt được một số kết quả nổi trội như sau:
- Luận án cung cấp thông tin về hiện trạng kỹ thuật và tài chính mô hình nuôi TCX trong ruộng lúa ở hai vùng sinh thái nước ngọt và lợ tại vùng ĐBSCL. Đồng thời phân tích sâu về tình hình phát triển và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của các mô hình, từ đó xác định các vấn đề cần cải tiến và thiết kế thí nghiệm phù hợp.
- Luận án đã xác định các thông số kỹ thuật và sinh học về việc sử dụng thức ăn cũng như phương thức nuôi tôm càng xanh hiệu quả. Việc ứng dụng quy trình nuôi tôm càng xanh qua hai giai đoạn (giai đoạn ương tôm giống và giai đoạn nuôi thương phẩm) kết hợp cho tôm ăn (sử dụng 2 loại thức ăn: thức ăn viên công nghiệp và tận dụng thức ăn tươi sống sẵn có ở địa phương), tôm cái chậm mang trứng hơn, cải thiện đáng kể kích cỡ tôm nuôi, tăng năng suất và hiệu quả tài chính của mô hình. Hiện trạng phần lớn các hộ nuôi tôm càng xanh ở vùng nước lợ thường không ương tôm giống và không cho ăn nên kích cỡ tôm nhỏ, phân đàn, tỷ lệ sống thấp và hiệu quả lợi nhuận chưa cao.
- Luận án đã xác định được mức nước hiệu quả để nuôi TCX luân canh vùng nước lợ là 50 – 60 cm. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trong bối cảnh biến đổi khí hậu và khan hiếm nguồn nước, mức nước trên mặt ruộng thấp (30 – 40 cm) vẫn nuôi được và đạt lợi nhuận.
- Luận án đã tìm ra mật độ thả tôm giống tối ưu cho hai mô hình nuôi TCX xen canh và luân canh, đồng thời cho thấy hiệu quả tài chính của mô hình nuôi xen canh thấp hơn so với mô hình luân canh.
- Luận án cung cấp kết quả thực nghiệm nuôi tôm càng xanh trên nền đất lúa ở vùng nước lợ, ứng dụng cải tiến kỹ thuật (ương tôm giống, cho tôm ăn; mức nước nuôi; mật độ thả giống) cho hiệu quả tốt hơn thực trạng sản xuất trong vùng, là cơ sở quan trọng cho việc cải tiến và phát triển mô hình nuôi tôm càng xanh ở vùng nước lợ ĐBSCL. Đồng thời cũng chứng minh rằng, nuôi TCX trong điều kiện biến đổi khí hậu, độ mặn tăng cao (4,5 – 20,6‰) vẫn nuôi được và đạt hiệu quả.
- Nghiên cứu đã thực hiện ở quy mô nông hộ, diện tích nuôi lớn (1 – 1,5 ha/hộ), thuận lợi cho việc áp dụng vào thực tiễn sản xuất trong vùng.
* Các ứng dụng/khả năng ứng dụng trong thực tiễn:
- Đào tạo: Kết quả nghiên cứu là nguồn tư liệu tham khảo cho giảng viên và sinh viên ngành thủy sản.
- Nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu cung cấp nhiều dẫn liệu mới về ảnh hưởng của việc cho ăn, phương thức nuôi, mức nước nuôi, mật độ thả giống đến tăng trưởng, tỷ lệ sống, năng suất và hiệu quả tài chính mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa ở vùng nước lợ, những dẫn liệu này có ý nghĩa khoa học.
- Kinh tế: Kết quả của luận án đã cải tiến quy trình kỹ thuật nuôi tôm càng xanh trên nền đất lúa ở vùng nước lợ, góp phần nâng cao hiệu quả của mô hình nuôi và cải thiện thu nhập cho người dân.
* Các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu:
- Cần nghiên cứu về tác động của độ mặn cao lên hiệu quả kỹ thuật và tài chính của mô hình nuôi tôm càng xanh kết hợp với lúa ở khu vực nước lợ.
- Cần nghiên cứu về ảnh hưởng của các vùng sinh thái khác nhau (các tỉnh vùng nước lợ) lên hiệu quả kỹ thuật và tài chính của mô hình nuôi TCX ở khu vực nước lợ.
Thesis title: A study on the development of giant freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii) farming in brackish water areas in the Mekong Delta.
- Major: Aquaculture. Code: 62620301.
- Full name of PhD student: Vo Hoang Liem Duc Tam. Year: 2016, round 2.
- Scientific supervisor: Assoc. Prof. Dr. Lam My Lan.
- Educational institution: Can Tho University.
A study on the development of giant freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii) farming in brackish water areas in the Mekong Delta was carried out to evaluate the current status and improve technical and financial efficiency to contribute to sustainable development rice - prawn farming model in brackish water areas in the Mekong Delta.
A survey on the current status of prawn farming in rice fields in freshwater (30 households) and brackish water (120 households) in the Mekong Delta. 30 rice – prawn integrated culture in Ca Mau were selected to re-survey in 2020 to evaluate technical changes and farming efficiency. The results showed that in freshwater areas, the prawn farming model rotated with an average stocking density of prawn (PL15) of 10.6 PL/m2, survival rate of 28.1%, and yield of 1,100 ± 300 kg/ha, profit 31.7 million VND/ha. Water level, density and farming time are two factors that affect the productivity and efficiency of the model. In brackish water areas: (a) Rotational rice - prawn farming model, prawn density was 5.2 inds/m2; water level was 0.42 cm; 28.5% of households did not feed, and yield of 361,9 kg/ha, survival rate 19.3 ± 6.8%, profit 14.8 ± 10.7 million VND/ha. In the integrated rice - prawn farming system, prawn density was 1.5 inds/m2; the water level was as low (0.38 cm) and 78.2% of households did not feed prawn; the yield 109.5 ± 46.5 kg/ha with survival rate at 18.2 ± 9.3% and profit 7.1 ± 2.8 million VND/ha. Density, water level, food and prawn nursery were factors affected on yield and efficiency of the model. The rice – prawn integrated model in 2019 had many technical improvements compared in 2017. The water level on the fields, stocking density, number of households feeding prawn and number of water changes increased. As a result, the volume, survival rate, and yield of prawns increased significantly and profits and cost benefit ratio were also improved. Feeding and density were two factors affected on the yield and profit of the model.
The effect of nursery and feed on technical and financial efficiency of giant freshwater prawn in integrated rice - prawn farming system in brackish water area was designed with 3 treatments: (treatment 1) no nursery and no feeding; (treatment 2) no nursery and feeding; (treatment 3) nursery and feeding. After 2 months of rearing, the final mean weight, yield, profit and cost benefit ratio were significantly highest in treatment 3 (45.20 ± 0.41 g; 295.8 ± 14.3 kg/ha, 11.2 ± 1.3 million VND/ha and 46.0 ± 4.6%) (p<0.05) compared with treatment 1 and 2. The survival rate of prawn in treatment 3 was higher (p<0.05) than in treatment 1 but not different (p>0.05) compared with treatment 2. Giant freshwater prawn farming in brackish water rice fields with nursery and feeding achieved high technical and financial efficiency, with a slower maturation time for female prawns.
The effect of density on technical and financial efficiency of freshwater prawn culture in integrated rice – prawn system in brackish area was conducted to find out the optimal stocking density. The experiment was completely randomized designed in 3 different densities treatments, 1.5, 2 and 2.5 juveniles/m2 and triplicate each. The initial mean weight of juveniles was 12.7 ± 2.14 g. After 100 days of culture, the final mean weight, survival rate of prawn and cost benefit ratio were highest in the treatment 1.5 juvenile/m2. In short, the density of 1.5 juvenile/m2 gave the highest economic return of the three density treatments.
Investigating the effect of water depth on the efficiency of giant freshwater prawn, cultured in the rice field was conducted in a brackish water area. The experiment was designed in triplicate with two water depths on the platform, 0.3 – 0.4 m and 0.5 – 0.6 m being considered as low and high water depth, respectively. After 120 days, the results showed that temperature, dissolved oxygen, N-NH4+, N-NO2- was better in the high water depth than in the low one. Furthermore, prawns cultured in low water depth had smaller final weight and lower survival and yield than those cultured in high water depth (p<0.05). A similar result was observed for net income, profit, and cost-benefit ratio. Prawn culture in the rice fields in brackish water areas with high water depth (0.5–0.6 m) provided an optimal environment for prawns and improved the financial efficiency of the culture system.
The study aimed to find out the appropriate stocking density on technical and financial efficiency of giant freshwater prawn rotational prawn - rice farming system in brackish area. The experiment was arranged in a completely randomized design with 3 different densities 3, 4 and 5 juveniles/m2; each treatment was in triplicate. The initial mean weight of juveniles was 12.7 ± 2.14 g. After 100 days, the highest weight, survival and yield in treatment 3 juveniles/m2 were highest. Cultivation of giant freshwater prawns in the field with a density of 3 juveniles/m2 was highest effective.
The on farm trial of prawn culture in rice – prawn rotational system in brackish water areas was carried out in 6 fields (1.5 ha/field). Stocking density was 3 juveniles/m2. The water level was at 0.5 - 0.6 m. After 120 days, the final mean weight of prawn were 50.4 - 53.3 g and survival rate was 24.6 ± 4.3%. The yield ranged from 503 - 825 kg/ha (660 ± 129 kg/ha). Profits from the model were at 21.4 - 57.5 million VND/ha (40 million VND/ha) and the cost benefit ratio (116.2%) was high.
In short, based on the current situation and studies on rearing, feeding, water level and stocking density in integration and rotation ass ưeexperimental results of prawn farming in brackish water areas with the appllication of technical improvements, growth, survival rate, and yield of prawns were improved. Developing the prawn - rice farming model in brackish water areas is effective because prawns adapts to climate change conditions (increased temperature, saltwater intrusion).
The dissertation on developing the giant freshwater prawn farming model in brackish water areas of the Mekong Delta has achieved several significant results. It offers detailed information on the technical and financial status of prawn farming models in rice fields within both freshwater and brackish water environments. At the same time, it offers an in-depth analysis of the development situation and factors affecting the production efficiency of the models, thereby identifying issues that need improvement and designing appropriate experiments. The thesis has determined the technical and biological parameters on the use of feed as well as effective methods of raising prawn. The application of the prawn farming process through two stages (prawn nursery stage and commercial farming stage) combined with prawn feeding (using 2 types of food: industrial pellets and taking advantage of available fresh food available locally), female prawn lay eggs more slowly, significantly improving the size of prawn, increasing yield and financial efficiency of the model. The current situation is that most prawn farming households in brackish water areas often do not nurse prawn and do not feed them, so the prawn size is small, the survival rate is low and the profit efficiency is not high. The thesis has identified the optimal water level for prawn farming rotation in brackish water as 0.5 – 0.6 m. In addition, the research demonstrates that, even under conditions of climate change and water scarcity, farming remains viable and profitable at lower water levels (0.3 – 0.4 m) on the field surface. Furthermore, the thesis has determined the ideal stocking density of prawn seeds for both rotation and integration prawn farming models. The findings also show that the financial efficiency of the integration model is lower than that of the rotation model. The thesis provides experimental results of raising giant freshwater prawns on rice land in brackish water areas, applying technical improvements (prawn nursery, prawn feeding; water level; stocking density) for better efficiency. At the same time, it also proves that, raising prawn in conditions of climate change and increased salinity (4.5 - 20.6‰) can still be raised effectively. The research was conducted on a farm household scale, with a large farming area (1.0 - 1.5 ha/household), which is convenient for application to yield practices in the region.
The findings of this study serve as a valuable resource for lecturers and students in aquaculture. The research offers new insights into how feed usage, farming techniques, water levels, and stocking density affect the growth, survival rates, yield, and financial efficiency of giant freshwater prawn farming in rice fields within brackish water areas. These results have refined the technical processes of prawn farming in these regions, enhancing the efficiency of the farming model and boosting income for local communities.
Effects of high salinity on the yield and financial performance of prawn culture in the integrated rice-prawn system within brackish water areas should be researched. Effect of different ecological regions within brackish water areas on the yield and financial performance of prawn farming models should be studied.