Tên đề tài: Nghiên cứu hiện trạng và một số đặc điểm sinh học tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii De Man, 1879) nuôi trong môi trường nước lợ” .  Tác giả: Huỳnh Kim Hường, Khóa 2009.  Chuyên ngành: Nuôi trồng thuỷ sản;  Mã số: 62620301. Nhóm ngành: Nông – Lâm – Ngư nghiệp  Người hướng dẫn chính: PSG.TS. Trần Ngọc Hải, Trường Đại học Cần Thơ.  Người hướng dẫn phụ: PGS.TS. Đỗ Thị Thanh Hương, Trường Đại học Cần Thơ. 1. Tóm tắt nội dung luận án Tôm càng xanh là đối tượng nuôi thủy sản quan trọng ở Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) và cả nước. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu cơ sở khoa học, đánh giá hiện trạng, tiềm năng cũng như đề xuất những giải pháp cho phát triển nuôi tôm càng xanh trong môi trường nước lợ, góp phần phát triển bền vững nghề thủy sản ở ĐBSCL. Nội dung của luận án gồm (i) Khảo sát hiện trạng nuôi tôm càng xanh vùng nước lợ ở ĐBSCL; (ii) Thí nghiệm so sánh một số chỉ tiêu sinh học, tăng trưởng và tỷ lệ sống tôm càng xanh nuôi trong bể với các độ mặn khác nhau; và (iii) Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh qui mô nông hộ ở vùng nước lợ tỉnh Trà Vinh. Đối với nội dung khảo sát hiện trạng nuôi tôm vùng nước lợ ở ĐBSCL, đề tài đã chọn và khảo sát 2 mô hình chính, gồm (i) Mô hình tôm càng xanh xen canh với lúa trên ruộng luân canh với tôm sú, với 60 hộ nuôi tại tỉnh Bạc Liêu; và (ii) Mô hình nuôi tôm càng xanh trong ao luân canh với tôm sú thâm canh với 48 hộ nuôi tại tỉnh Trà Vinh. Phương pháp phỏng vấn theo biểu mẫu soạn sẵn, thu thập các thông tin chủ yếu về kỹ thuật và khía cạnh tài chính, cũng như nhận thức của người nuôi về các mô hình. Nghiên cứu cũng chọn 16 hộ áp dụng mô hình (ii) ở Trà Vinh để khảo sát lại và đánh giá những thay đổi kỹ thuật, hiệu quả tài chính nuôi qua các năm 2010 và 2013. Ngoài ra, luận án cũng tìm hiểu, thu thập thông tin thứ cấp về tình hình phát triển về diện tích, sản lượng, năng suất tôm càng xanh nuôi ở ĐBSCL nói chung và các tỉnh vùng nước lợ nói riêng, làm cơ sở cho đánh giá và định hướng phát triển. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiện nay ĐBSCL có 15.270 ha nuôi tôm càng xanh, đạt sản lượng 5.306 tấn, trong đó các tỉnh vùng nước lợ ven biển chiếm 90,1% tổng diện tích nuôi và 64,8% tổng sản lượng tôm nuôi. Đối với mô hình (i) nuôi tôm càng xanh xen canh với lúa trên ruộng luân canh tôm sú, ruộng nuôi có diện tích trung bình là 2,15 ha, mật độ 1,05 con/m2, đa số các hộ nuôi không cho ăn bổ sung, năng suất tôm đạt trung bình 110 kg/ha/vụ và lợi nhuận đạt 11,5 triệu đồng/ha/vụ. Đối với mô hình (ii) nuôi tôm càng xanh luân canh với tôm sú trong ao, ao nuôi có diện tích trung bình 0,6 ha, mật độ nuôi trung bình 8,97 con/m2, cho ăn bằng thức ăn công nghiệp hay có kết hợp với thức ăn tự chế hoặc cá tạp, năng suất, lợi nhuận đạt trung bình 886 kg/ha/vụ và 68 triệu đồng/ha/vụ. Nuôi tôm càng xanh với chi phí thấp, nhưng đã góp phần quan trọng vào cơ cấu thu nhập và tăng thu nhập cho các mô hình. Nghiên cứu đã phân tích chi tiết ảnh hưởng của các yếu tố kỹ thuật (diện tích, mật độ, thức ăn, quản lý nước….), đặc biệt là ảnh hưởng của độ mặn lên năng suất và hiệu quả tài chính của các mô hình. Qua đó, chứng minh được nuôi tôm ở vùng nước lợ 5 - 10‰ cho tăng trưởng, năng suất và hiệu quả tài chính tương đương ở vùng nước có độ mặn thấp hơn. Đối với nội dung nghiên cứu nuôi tôm quần thể và cá thể trên bể với các độ mặn khác nhau nhằm bổ sung thêm cơ sở khoa học cho việc nuôi tôm trong môi trường nước lợ, thí nghiệm gồm có 4 nghiệm thức độ mặn là 0‰, 5‰, 10‰ và 15‰. Mỗi nghiệm thức có 3 bể nuôi tôm theo quần thể (60 con tôm/bể) và 1 bể nuôi tôm theo cá thể (mỗi bể có 60 lồng, nuôi 1 con tôm /lồng). Bể nuôi có thể tích 2 m3, được cấp khí liên tục và thay nước định kỳ. Hệ thống nuôi được đặt dưới mái che. Tôm được cho ăn bằng thức ăn viên có hàm lượng đạm 35%. Thời gian nuôi 120 ngày. Các chỉ tiêu về tỷ lệ sống, tăng trưởng, sinh sản, sinh lý máu, sinh hóa thịt tôm được nghiên cứu chi tiết. Kết quả cho thấy, giữa các nghiệm thức có độ mặn 0 - 15‰, độ mặn càng cao thì số lần lột xác ít hơn, chu kỳ lột xác dài hơn, nhưng tăng trưởng và sinh khối của tôm tương đương ở nước ngọt, riêng đối với thí nghiệm nuôi cá thể ở độ mặn 5‰ tăng trưởng của tôm cao hơn ở nước ngọt. Độ mặn càng cao tỷ lệ đẻ trứng của tôm cái ít hơn, chu kỳ đẻ trứng dài hơn, số lần đẻ tái phát dục ít hơn và sức sinh sản ít hơn so với tôm ở nước ngọt. Đặc biệt tôm nuôi ở độ mặn 15‰ tỉ lệ đẻ trứng thấp ở thí nghiệm quần thể hay không đẻ trứng ở thí nghiệm cá thể trong 120 ngày nuôi. Các chỉ tiêu sinh hóa tôm nuôi ở độ mặn cao tương đương, đặc biệt, tôm ở 5‰ có hàm lượng đạm cao hơn ở nước ngọt. Tỷ lệ sống và sinh khối tôm nuôi ở các nghiệm thức khác biệt nhau không có ý nghĩa thống kê. Đối với nội dung thực nghiệm nuôi tôm bán thâm canh trong ao tại Trà Vinh, tổng cộng có 9 ao được chọn nuôi tại Huyện Duyên Hải (3 ao), Trà Cú (3 ao) và Cầu Ngang (3 ao). Các ao có diện tích tương tự nhau là 4000 m2/ao, độ sâu 1,5 m. Sau vụ nuôi tôm sú, ao được cải tạo và thả nuôi tôm càng xanh với mật độ 7 con/m2. Tôm được cho ăn bằng thức ăn nhân tạo có hàm lượng đạm 35% và với tỷ lệ 2 - 15% khối lượng tôm theo từng giai đoạn. Thời gian nuôi là 6 tháng. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở các ao tại huyện Duyên Hải (độ mặn trung bình cao nhất 6,3±2,4‰) và Trà Cú (độ mặn 4,1±3,1‰), tôm tăng trưởng nhanh hơn và đạt khối lượng (39,5 và 36,1 g/con) cao hơn so với tôm nuôi ở Cầu Ngang (3,4±2,0‰) (26,5 g/con). Tôm nuôi ở vùng có độ mặn cao (Duyên Hải, Trà Cú) có tỷ lệ đẻ trứng thấp hơn so với vùng có độ mặn thấp (Cầu Ngang). Năng suất và lợi nhuận tôm nuôi ở Duyên Hải (1.342 kg/ha/vụ và 199 triệu đồng/ha/vụ) và ở Trà Cú (1.269 kg/ha/vụ, 156 triệu đồng/ha/vụ) cao hơn có ý nghĩa so với tôm nuôi ở Cầu Ngang (988 kg/ha/vụ và 74,2 triệu đồng/ha/vụ). Tóm lại, với cách tiếp cận nhiều mặt, từ các nghiên cứu nuôi tôm trên bể, đến khảo sát, đánh giá hiện trạng các mô hình nuôi thông qua thu thập ý kiến nông hộ và cán bộ địa phương, đồng thời thực nghiệm nuôi tôm qui mô thương phẩm trong điều kiện có tư vấn, kiểm soát kỹ thuật, các kết quả đã được phân tích sâu cho thấy rõ được tính khoa học và thực tiễn, khẳng định được hiệu quả tích cực, ưu điểm, tính khả thi, tính cần thiết và tiềm năng nuôi tôm càng xanh ở vùng nước lợ. Bên cạnh đó, kết quả phân tích cũng cho thấy một số trở ngại và đề xuất một số giải pháp cần thiết, góp phần phát triển nuôi tôm càng xanh ở vùng nước lợ nói riêng và ngành nuôi trồng thủy sản vùng ĐBSCL nói chung. Từ khóa: Tôm càng xanh, Macrobrachium rosenbergii, độ mặn, lột xác, sinh sản, nước lợ. 2. Những kết quả mới của luận án: - Luận án cung cấp dẫn liệu khoa học từ thí nghiệm, thực nghiệm và khảo sát điều kiện thực tế đã khẳng định rằng tôm càng xanh nuôi trong môi trường nước lợ 5 - 15‰ cho tăng trưởng tương đương với tôm nuôi trong môi trường nước ngọt. Riêng đối với thí nghiệm nuôi cá thể ở độ mặn 5‰ tăng trưởng của tôm cao hơn ở nước ngọt - Luận án cung cấp thông tin, phân tích về hiện trạng, kỹ thuật, tài chính và các yếu tố liên quan đến hiệu quả sản xuất của mô hình nuôi tôm càng xanh trong điều kiện nước lợ. - Luận án cung cấp kết quả thực nghiệm nuôi tôm càng xanh trong điều kiện độ mặn khác nhau, là cơ sở quan trọng cho việc phát triển mô hình nuôi tôm càng xanh ở vùng nước lợ ĐBSCL. 3. Các ứng dụng/khả năng ứng dụng trong thực tiễn, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu:   Luận án cung cấp nhiều dẫn liệu mới về ảnh hưởng của độ mặn lên một số đặc điểm sinh học của tôm càng xanh trong điều kiện thí nghiệm. Bên cạnh đó luận án cũng cung cấp thông tin về đặc điểm kỹ thuật, hiệu quả kinh tế, các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả của các mô hình nuôi tôm càng xanh ở các tỉnh khác nhau vùng ĐBSCL, thông qua việc khảo sát hiện trạng và xây dựng thực nghiệm mô hình nuôi ở quy mô nông hộ. Các kết quả của luận án có ý nghĩa thiết thực trong quy hoạch và phát triển nuôi tôm càng xanh ở khu vực nước lợ vùng ĐBSCL. Luận án cũng là tài liệu tham khảo quan trọng cho công tác đào tạo và nghiên cứu tiếp theo trên tôm càng xanh cũng như các đối tượng khác, góp phần làm cơ sở khoa học, cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu quả trong sản xuất thủy sản vùng nước lợ.  

INFORMATION ON RESEARCH RESULTS

Research title: Current status and biological characteristics of giant freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii De Man, 1879) cultured in the brackish water environment Major: Aquaculture                             Code: 62 62 03 01 PhD student: Huynh Kim Huong Assoc. Prof. Dr. Tran Ngoc Hai Assoc. Prof. Dr. Do Thi Thanh Huong Training Facility: CanTho University 1. Research Abstract Giant freshwater prawn is one of important aquaculture species in the Mekong Delta and Vietnam, generally. In order to find out more scientific basis, this study on was conducted to evaluate the current status, culture potential as well as to recommend solutions for further development of prawn culture in the brackish water area, contributing to sustainable development of aquaculture in the region. Main contents of the study are  (i)  Evaluation  on the current status of giant freshwater prawn culture in the brackish water area of the Mekong Delta; (ii) Comparative study on  biological characteristics, growth and survivals of prawn cultured in tanks at different salinities; and (iii) Trials on prawn culture at household scales in brackish water area of Tra Vinh province. For the survey and evaluation on current status of prawn farming in brackish water area of the Mekong Delta, two farming systems were selected for study, including (i) Prawn cum rice farming on field alternatively with tiger shrimp culture in Bac Lieu province with a total of 60 households; and (ii) Prawn culture in ponds alternatively with tiger shrimp culture in Tra Vinh province, with a total of 48 households. The survey was conducted with prepared questionnaires for information on technological, economical aspects  as well as farmer perception on the farming systems. A total of 16 farms applying the system (ii) in Tra Vinh province were also selected for interview and interview again to evaluate the changes in technical and economical aspects between 2010 and 2013. In addition, secondary information on development of prawn culture in the Mekong Delta generally and in the brackish water particularly were also collected for evaluation. Results of the studies showed that there are currently 15,270 ha of  prawn culture in the Mekong Delta with total production of 5,306 tons, of which coastal provinces cover for 90.1% of total culture area and 64.8% of total production. For the system (i) culturing prawn cum rice on rice field alternatively with tiger shrimp, the fields were 2.15 ha in area; prawn culture density was 1.05 inds/m2; prawn were mostly not fed; and average yields 110 kg/ha/crop and net income of 11.5 millions VND/ha/crop were achieved. For the system (ii) on culturing prawn in ponds alternatively with tiger shrimps, the ponds were in average of 0.6 ha; stocking density was at 8.97 inds/m2; prawns were fed with pellet feed or combined with homemade feed and trashfish; and yield and net income of 886 kg/ha/crop and 68 million VND/ha/crop were obtained. Prawn culture share low production cost rates but contribute large ratio and improve significantly the total income of the farming systems. The results were also analyzed to evaluate the effects of different technical factors (culture area, stocking densities, feed, water management….), especially the effects of water salinities on yields and income of the prawn farming systems through which to indicate that prawn culture in water salinities of 5 - 10‰ have growth performance, yields and income similarly those stocked in the lower salinities. For the study on group and individual culture of prawn in tanks at different salinities, an experiment was conducted with 4 treatments of salinities of 0‰, 5‰, 10‰ and 15‰.  Each treatment has 3 tanks for group culture (60 prawn/tank) and 1 tank for individual culture (60 net cages/tank, 1 prawn/cage). The 2 m3 culture tanks were placed under roof, aerated continuously and exchanged monthly with new water.   Prawns were fed daily with pellet feed of 35% protein. The experiment lasted for 120 days.  Characteristics of survivals, growth rates, spawning, physiological characteristics of blood, biochemical composition of flesh were analyzed. Results showed that among the treatments of salinities of 0 - 15‰, the higher water salinities resulted in fewer molting times, longer molting cycles, but growth rates and biomass was not significantly different or even higher than those in freshwater. Higher salinities also resulted in lower spawning rates, longer spawning cycles, lower re-spawning rates and lower fecundities compared to those in the freshwater.  Especially, prawns in salinity of 15‰ did not spawn and just spawned scarely within 120 days of culture. Biochemical composition of prawn flesh were not significantly different among the treatments, accept for protein content of prawn in 5‰ which was the significantly highest. Survival rates and biomass of prawn among the treatments were not significantly different from one another. For the trials on pond culture of prawns in Tra Vinh province, a total of 9 ponds were selected for culture in Duyen Hai district (3 ponds), Tra Cu district (3 ponds) and Cau Ngang District (3 ponds). The ponds were 4.000 m2 each in area and 1,5 m in depth. After the tiger shrimp culture crop, pond were prepared for prawn stocking at density of 7 inds/m2. Prawn were fed with pellet feed of  35% protein and at feeding rates of 2 - 15%  body weight. Culture duration was 6 months. Results showed that prawns in Duyen Hai with highest salinities (average of 6.3±2.4‰) and in Tra Cu (average of  4.1±3.1‰) had fastest growth and reached body weight of  39.5 and 36.1 g, respectively, compared to those in Cau Ngang districts where with average salinity of 3.4±2.0‰, and prawn body weight of 26.5 g. Prawns cultured in higher water salinities  (Duyen Hai and Tra Cu) have lower spawning rates compared to those in lower salinities (Cau Ngang).  Prawn yields and net income in Duyen Hai ((1,342 kg/ha/crop and 199 millions VND/ha/crop) and in Tra Cu (1,269 kg/ha/crop, 156 million VND/ha/crop) were significantly higher than those in Cau Ngang (988 kg/ha/crop and 74,2 millions VND/ha/crop). In conclusion, with approaching methods from controlled tank experiments, survey and evaluation on current status of prawn culture, to field trials on commercial culture of prawn in different areas under technical control and consultation, the results were deeply analyzed which indicate the scientific and practical basis; prove the positive efficiency, advantages, feasibilities,  rationales, and potentials for prawn culture in the brackish water region.  In addition, the results also indicated some major challenges and recommended some necessary solutions in other to contribute to further development of prawn culture in the brackish water area as well as sustainable aquaculture in the Mekong Delta generally. Key words: Giant freshwater prawn, Macrobrachium rosenbergii,  salinity, molting, spawning, brackish water. 2. Research Creativeness `           From the results of the experiment, research, and survey on the real conditions, the studies all showed that freshwater prawns cultured in brackish water of 5-15‰ grow not differently compared to those in freshwater; moreover, decrease in spawning compared to those in freshwater. The study updated, deeply analyzed and showed the development trend, technical and socio-economical aspects, and factors effecting to the efficiency of culture systems of freshwater prawn in brackish water area. The study provide results of the trials in freshwater prawn culture in different salinities with technical supports resulting in better efficiency compared to the current status. This is an important basis to improve and develop further culture system of freshwater prawn in brackish water in Mekong Delta. 3. Practical implications from study            The research findings provide new knowledge on the effects of salinity on some biological characteristics of freshwater prawn under experimental conditions. Besides, it also shows technical characteristics, the economic efficiency, and major factors that effect the productivities and financial efficiency of culture systems in different provinces in Mekong Delta. The results of study strongly contribute to planning and developing strategies for freshwater prawn culture in brackish water in Mekong Delta. The study is also an important reference for education and further researches on freshwater prawn as well as other species, that contributes to be scientific basis, technical and financial improvement in aquaculture production in brackish water area.

>> Xem chi tiết nội dung luận án.

>> Xem thông tin đăng tải tại Website Bộ giáo dục và Đào tạo.

Thời gian phát VB/CC/CN

Hướng dẫn nhập Kế hoạch học tập cho HVCH

Số lượt truy cập

15700121
Hôm nay
Tuần này
Tháng này
Tổng số lượt truy cập
702
66595
248465
15700121
Vinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.xVinaora Nivo Slider 3.x