Tên đề tài: “Phân tích phản ứng cung tôm sú ở Đồng sông bằng Cửu Long”.
Tác giả: Lê Nhị Bảo Ngọc, Khóa: 2014
Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp; Mã số: 62620115. Nhóm ngành: Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.
Người hướng dẫn chính: TS. Lê Quang Thông - Trường Đại học Nông Lâm TP HCM
Người hướng dẫn phụ: TS. Thái Anh Hòa - Trường Đại học Trà Vinh
Nghiên cứu nhằm xây dựng hàm phản ứng cung đối với tôm sú tại các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bằng mô hình của Nerlove (1958). Trong mô hình này, phản ứng cung của vùng là một hàm số của giá kỳ vọng và sự điều chỉnh sản xuất của vùng dựa vào các giá và sản lượng trễ. Nội dung nghiên cứu được thực hiện theo các bước sau. Thứ nhất, nghiên cứu sự truyền dẫn giá bán tôm sú trong thị trường để xác định biến giá và phương pháp ước lượng. Thứ hai, nghiên cứu mô hình giá kỳ vọng làm cơ sở đề xuất độ trễ của giá trong hàm phản ứng cung. Thứ ba, dựa vào kết quả bước 1 và bước 2 tác giả ước lượng mô hình phản ứng cung tôm sú ở ĐBSCL. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu luận án đề xuất định hướng giải pháp cho nông hộ nuôi tôm ở ĐBSCL trong thời gian tới.
Mô hình truyền dẫn giá xem xét mối quan hệ giữa giá bán tôm sú tại cổng trại với giá bán lẻ nội địa và giá xuất khẩu trong ngắn hạn và dài hạn ở tỉnh Cà Mau. Số liệu chuỗi thời gian từ tháng 9/2011 đến tháng 4/2017 được sử dụng cho phân tích. Mối quan hệ giữa các mức giá được phân tích dựa vào việc mô hình hồi quy tuyến tính OLS dựa trên các chuỗi dừng của giá và ước lượng mô hình hiệu chỉnh sai số ECM. Kết quả ước lượng mô hình cho thấy giá bán tôm sú giữa các thị trường luôn tồn tại mối quan hệ nhân quả. Trong dài hạn giá bán tôm sú tại cổng trại chịu sự tác động cùng chiều của giá bán lẻ nội địa và giá xuất khẩu. Trong ngắn hạn, giá bán lẻ có ảnh hưởng cùng chiều và tức thời đến giá bán tôm sú tại cổng trại.
Để ước lượng mô hình giá kỳ vọng của nông hộ nuôi tôm tác giả sử dụng số liệu thu thập từ phỏng vấn trực tiếp 97 nông hộ tại tỉnh Cà Mau. Dựa trên tổng hợp của Fisher and Tanner (1978), 6 mô hình về kỳ vọng giá của nông hộ được ước lượng và mô hình giá Cobweb với kỳ vọng thích ứng của Nerlove (1958) phù hợp với số liệu quan sát nhất. Theo đó, giá kỳ vọng của nông hộ được xác định dựa trên giá trễ một kỳ và sự điều chỉnh kỳ vọng so với giá thực tế của nông hộ trong kỳ trước. Kết quả nghiên cứu còn chỉ ra giá kỳ vọng của nông hộ có tương quan dương với giá trễ trên thị trường, trong khi đó, giá thực tế trên thị trường lại có tương quan âm với giá trị trễ của nó.
Dựa vào kết quả mô hình giá kỳ vọng của nông hộ tác giả sử dụng giá kỳ vọng là hàm giá Cobweb với một độ trễ trong mô hình phản ứng cung Nerlove. Sử dụng số liệu bảng từ tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng và Kiên Giang trong giai đoạn quý 1/2014 đến quý 4/2017, tác giả ước lượng mô hình phản ứng cung Nerlove với giá kỳ vọng được hiển thị thông qua giá trễ. Kết quả ước lượng hàm phản ứng cung theo phương pháp hiệu ứng cố định (FE) cho thấy, thông tin giá kỳ vọng tác động mạnh đến điều chỉnh cung thông qua sản lượng và diện tích.
Trong ngắn hạn và dài hạn, hệ số co giãn cung về sản lượng theo giá cổng trại của sản phẩm, giá cổng trại yếu tố đầu vào và giá cổng trại sản phẩm cạnh tranh (cua biển) đều kém co giãn. Tuy nhiên, hệ số co giãn cung về sản lượng với giá cổng trại của sản phẩm cạnh tranh (tôm thẻ chân trắng) co giãn. Trong khi đó, hệ số co giãn cung về diện tích theo giá cổng trại của sản phẩm, giá cổng trại yếu tố đầu vào và giá cổng trại sản phẩm cạnh tranh đều co giãn. Điều này cho thấy, diện tích nuôi tôm sú rất nhạy cảm trước biến động về giá bán nhưng sản lượng tôm sú thì không. Đường cung tôm sú dịch chuyển sang trái trước tác động của sự gia tăng giá tôm sú giống và giá sản phẩm cạnh tranh.
Kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin cho nông hộ nuôi tôm sú, nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý sản xuất cũng như các nhà kinh doanh các cơ quan hữu quan và người nuôi tôm có thể tham khảo và vận dụng với điều kiện của địa phương một cách hợp lý để phát triển lĩnh vực nuôi tôm sú hiệu quả. Nghiên cứu là nguồn tài liệu bổ sung cho lĩnh vực nghiên cứu còn hạn chế về phân tích thị trường trong ngành thủy sản Việt Nam. Đồng thời, luận án là tài liệu tham khảo hữu ích phục vụ cho quá trình đào tạo các chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp ở bậc đại học và sau đại học.
Trong quá trình nghiên cứu, luận án sẽ không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Chính vì thế, một vấn đề nghiên cứu tiếp theo được gợi mở từ giới hạn của kết quả nghiên cứu của luận án: Trong phân tích phản ứng cung đề tài chưa tiến hành các yếu tố rủi ro giá và rủi ro sản lượng vì không có đủ thông tin về số liệu nên đây cũng là một vấn đề cần nghiên cứu tiếp.
The objective of the study is to formulate the Nerlovian supply response function tiger shrimp in Mekong Delta. Supply response is a function of expected price and adjustment to price and lagged production. The study has been done through following steps: (i) price transmission model in black tiger shrimp market was estimated to explore the relationship between farm-gate price and local retail price and export price and then, to test the endogeneity of farm-gate price, (ii) price expectation model for shrimp farmers was estimated to explore the orders of distributed lag in the model, and (iii) price function of expected price and adjustment to price and lagged production were formulated. Based on the results, the author made suggestions for shrimp-farming households in Mekong Delta.
The estimated price transmission model examines the relationship between farm-gate price, retail price and export prices in both short run and long run in Ca Mau province. Monthly time-series data for the analysis were collected from September 2011 to April 2017. Error correction mechanism (ECM) and linear regression model of farm-gate price were employed to explore the price transmission from retail and export prices to farm-gate price. Estimation results indicated that the prices of black tiger shrimp between markets had a causal relationship. In the long run, the price of black tiger shrimp at the farm gate and retail and export price was co-integrated and positively correlated. In the short run, the retail price was likely to have a significant effect on farm-gate one but the export price was not. It also found that the disequilibrium of the market in a month was corrected in the subsequent month through the error-correction mechanism.
Price expectation model of shrimp farmers in Ca Mau province was estimated using data gathered from a survey of 97 farmers. Based on the survey of Fisher and Tanner (1978), 6 models of price expectation were estimated. The Nerlovian model was likely to best fit the data. Consequently, the price expectation of farmers was affected by the one-period lagged market price and the adjustment in price expectation to last period’s expectation error. Results also showed that while the price expectations were positively correlated with the one-period lagged market price, market prices were negatively correlated.
Based on the estimated price expectation model, the Cobweb price expectation model is applied in estimating the Nerlovian partial adjustment supply response of the Mekong Delta. Using the quarterly panel data collected from four provinces (Ca Mau, Bac Lieu, Soc Trang, and Kien Giang) for the period from 2014 to 2016, estimates in the supply response are obtained from Fixed Effects (FE) method. The results document that the adaptive expectation hypothesis to simple Cobweb model is likely to best fit the data. The estimates of the supply response model show that information used for expected price formation quickly responded in a making decision of black tiger shrimp production.
In both short run and long run, the expected price has a significant effect in directing black tiger shrimp farmers to formulate the supply response decision. Moreover, quantities harvested of white leg shrimp and black tiger shrimp are essential factors in the supply response function of the black tiger shrimp farmers in Mekong Delta. The estimates of the supply response model show that acreage response elasticity is more sensitive than output response elasticity. The price of input and price of competing commodities may shift the supply curve to the left.
Based on the research findings, recommendations to support industry shrimp of provinces in Mekong Delta have been made. These solutions could be references or applied in flexible ways depend upon data and actual situations. This is a useful reference for the training of agricultural economics at the undergraduate and postgraduate level.
Within the scope of the study, the dissertation could not avoid certain restrictions. Therefore, the issue suggested for further study from the limitations and the research results of the dissertation as follows: analyze supply response with influence yield and acreage are production risk and price risk because it was incomplete information about data second, so this would like to an issue that needs further study.